Thứ Năm, 6 tháng 4, 2017

Bánh ít trần nhân vịt xiêm – Món ngon miệt vườn Phong Điền (Cần Thơ)

Vùng đất văn minh miệt vườn Phong Điền còn nổi tiếng sở hữu ẩm thực phong phú, đa dạng. Bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đã làm nên nhiều món ngon nức tiếng Cần Thơ như: bánh hỏi mặt võng, bánh canh gõ, gà um dâu Hạ Châu… Gần đây, ẩm thực Phong Điền còn bổ sung thêm món bánh ít trần nhân vịt xiêm thơm ngon và đầy sáng tạo.
Mộc mạc như tên gọi, bánh ít trần nhân vịt xiêm nhìn thoáng qua giống như bánh ít trần thường thấy trong các món dân dã của người miền Tây.vé máy bay đi đà nẵng giá rẻ Chỉ khác là bề mặt bánh được điểm xuyến bằng vài lá ngò duyên dáng đến lạ. Cô Lâm Thị Khuya- người sáng tạo ra món bánh này chia sẻ: "Cô chỉ mới nghĩ ra và làm bánh này khoảng 3 tháng nay. Vậy mà quý khách thích lắm". Tương tự như chiếc bánh ít trần nhân tôm thịt hay dừa, bánh này được làm từ bột nếp dẻo. Để bánh ngon, cô Khuya chỉ sử dụng bột nếp xay tại nhà làm nên vỏ bánh mềm dẻo. Phần nhân thay vì dùng tôm thịt, cô Khuya sử dụng thịt vịt xiêm cho thơm ngon. Vịt được lựa chọn kỹ rồi lấy phần thịt ức hoặc đùi băm nhuyễn cùng mộc nhĩ (nấm mèo), ướp gia vị cho vừa ăn. Thịt vịt xiêm vốn ngọt lại chắc thịt, thêm vào những sợi mộc nhĩ giòn sựt, tạo hương vị mới cho bánh. Áo bên ngoài là lớp bột nếp dẻo mịn, điểm xuyến là vài lá ngò xanh. Bánh làm xong được đặt lên tấm lá chuối nhỏ, phết chút dầu ăn rồi đem hấp cách thủy chừng 10-15 phút. Bánh chín thơm phức, bóng loáng. Ẳn kèm bánh ít trần nhân vịt xiêm là rau thơm, dưa leo, nước mắm chua ngọt và chút nước cốt béo ngậy.
Món ăn dân dã này lại rất được lòng quý khách gần xa, trở thành một trong món chính không thể thiếu vào dịp cuối tuần trong thực đơn đón chào du khách của vườn 9 Hồng./.

Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017

Bánh mứt hoàng cung gồm kết hợp gì lạ?

Đây là lần đầu tiên với một trưng bày bánh mứt hoàng cung trong Festival do chính nghệ nhân ẩm thực hoàng cung Hồ Hoàn Kiếm Thị Hoàng Anh thực hiện trong cung Diên Thọ. 1 trưng bày sở hữu thể nói là các tác phẩm tuyệt khéo của đôi bàn tay và cả tâm - trí cùng 1 kiến thức thẩm mỹ tuyệt vời của nghệ nhân.


Từ “mứt bát bửu” đến những loại xôi ngọt, bánh, mứt quen tên tới chưa bao giờ nghe, được bày biện trong những đĩa, mâm, quả gỗ sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh xảo, hay những đĩa- quả gốm sứ cổ men lam Huế, đẹp như những tác phẩm mỹ thuật sắp đặt cầu kỳ tinh tế.

Giống như 1 sắp đặt ngẫu hứng của người nghệ sĩ, những loại bánh mứt mang nhiều màu sắc, hương vị giống như tượng trưng cho vũ trụ Ngũ hành tương sinh, tạo thành 1 tổng hòa tuyệt đẹp.

Mứt “bát bửu” như gói cả hương vị Trời, Đất bốn mùa nước Việt, cũng như lời cầu ước phát lộc, phát tài, thọ khang, may mắn và thịnh vượng. Từ vị ngọt hơi chút đắng nhẹ của mứt “khổ qua”, các  không may mắn sẽ qua đi tới vị ngọt cay, thơm nhẹ, ấm nóng của mứt “gừng xăm”, “gừng lát”, ý nghĩa thủy chung và còn như một vị thuốc nam tiêu độc, khử chướng khí.


Rồi vị ngọt the mát nhẹ của trái mứt “Phật thủ”, “kim quất”, “cam sành”, mứt “trần bì gừng dẻo”, không chỉ là như một lời nguyện may mắn mà còn là những sứ giả đông dược làm thanh tao hơn giọng nói tiếng cười.

các lát mứt “củ sen”, “củ năng”, “bí đao” làm đẹp cho bàn tiệc trà còn là các ngọt ngào thanh mát, giải nhiệt, đem đến dễ chịu nhẹ nhàng ở mùa nóng nực…Giống như 1 sắp đặt ngẫu hứng của người nghệ sĩ, những loại mứt trái quả mang nhiều màu sắc, hương vị giống như tượng trưng cho vũ trụ: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, Ngũ hành tương sinh, tạo thành 1 tổng hòa tuyệt đẹp.

Hay từ món bánh bó trong dân gian, khi theo chân của những phi tần, cung nữ vào chốn cung đình thì trở thành quyền quý cao sang bằng cách sử dụng những nguyên liệu tốt nhất: Nếp thơm, đường phèn loại 1, các loại mứt quý như hồng khô, long nhãn, mứt phật thủ, mứt cam sành, mứt trần bì…

Khi dùng cắt ra từng lát mỏng, dùng giấy bóng kính gói lại để nhìn thấy các sợi mứt trái cây đậm nhạt đầy màu sắc xanh, đỏ, vàng, trắng… đẹp mắt. Bánh ăn mềm mại, vị ngọt thanh lẫn vị the, chua, cay… hương thơm mứt trái cây.


Ẩm thực Huế từ dân gian tới cung đình, từ cung đình trở lại dân gian với những đặc tính, hương vị khó sở hữu thể quên, như 1 đặc sản chỉ sở hữu thể nói là “Ẩm thực Huế”. Tại sao không, khi với thể tạo 1 vị thế cho “ẩm thực Huế” trở thành “đại sứ văn hóa

Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Độc đáo hát dân ca trong đám cưới của người Bru - Vân Kiều

những hình thức hát dân ca trong đám cưới của người Bru - Vân Kiều mang ý nghĩa chúc mừng cho đôi trẻ, ko chỉ người trẻ hát mà cả những người già cũng hát. Và trong mỗi đám cưới thực sự là niềm vui chung của cả làng.
Đối với bất kỳ dân tộc nào cũng vậy, hình thức hát dân ca dân gian là một nét đẹp trong văn hoá ứng xử đầy chất thơ trữ tình, đằm thắm đã và đang tôn vinh vẻ đẹp văn hóa truyền thống, đặc sắc của dân tộc mình. Đó là làn điệu hát giao duyên dành cho thanh niên nam nữ đến tuổi trưởng thành, họ hát sở hữu nhau trong những lần hò hẹn đi Sim. Cứ mỗi độ xuân về, những đôi trai làng, gái bản áo quần rực rỡ, sau khi đi thăm người thân, bạn bè chiều lại kéo nhau ra bờ sông, bờ suối để hát đối. Đấy là cơ hội để trai làng gái bản sở hữu dịp gặp nhau trao đổi tâm tình, ngỏ lời yêu thường, hay trong những dịp đám cưới...

Người Bru - Vân Kiều với rất nhiều điệu hát dân ca, các làn điệu dân ca được dùng để hát giao duyên trong các buổi đi sim, trong đám cưới thì  4 loại chính đó là: Cha chấp, Oát, Xanớt, Tà oải. Cha chấp là loại hình đối đáp dành cho thanh niên nam nữ trong những buổi đầu hò hẹn.  nhạc điệu ấm áp và ca từ trữ tình họ hát không phải để thử tài mà chỉ để bày tỏ nỗi lòng, thông tin cho nhau thân phận, hoàn cảnh và cảm nhận của mình về đối tượng. Bước qua giai đoạn đầu bỡ ngỡ còn nhiều nghi ngại, họ dần trở nên thân thuộc. Làn điệu Oát giúp những đôi bạn trẻ xích lại gần nhau hơn. Tình yêu của họ lớn dần lên qua các lời ca, điệu hát. các câu hát Oát như trở thành người mai mối dẫn dắt họ mạnh dạn tìm đến bên nhau. Xà Nớt là làn điệu dân ca để bày tỏ mong ước kết đôi của hai người yêu nhau. Đó là khi họ tự thấy được niềm khát khao yêu đương của lòng mình, là khi họ thấy ko thể thiếu được người mình yêu.
Khi nhà trai (khơi) tới đoàn nhà gái sẽ 2 đến 3 người thành niên đến đánh chiềng chào đón đoàn nhà trai. Khi các lễ vật đã được kiểm kê đầy đủ thì bên nhà gái mời nhà trai uống rượu và hát những câu hát vui vẻ, không nằm ngoài mục đích là chúc mừng cho đôi trẻ.

Thậm chí trong đám cưới cũng là dịp để những thanh niên nam nữ chưa  gia đình tìm hiểu nhau. Nếu trong đám cưới chàng trai thấy thích cô gái nào thì sẽ ngỏ ý mời nàng hát đối đáp. Họ hát  nhau thâu đêm suốt sáng, làm cho đám cưới của đôi trẻ trở nên vui hơn, thân thiết hơn.

Trước khi cô dâu về nhà chồng các người già trong bản cũng hát để dặn dò cô dâu. Hình ảnh đó rất đẹp, nó thể hiện sự quan tâm, sự đoàn kết trong làng bản rất chặt chẽ.

1 điều ko thể thiếu khi nói đến nhũng làn điệu dân ca của người Bru - Vân Kiều là các nhạc cụ truyền thống kèm theo. Kèn Amam đi kèm sở hữu làn điệu Cha chấp. Trong các lần đi Sim, trong dịp đám cưới và hát giao duyên, con gái là người giữ kèn Amam. Đây là loại kèn phải với hai người thổi và hát lên làn điệu Cha chấp để trao đổi tình cảm, giọng kèn trầm và âm vang. Còn làn điệu Oát thì phải đi kèm  kèn Tariền. Loại kèn này được làm bằng ống trúc,  dùi năm lỗ tạo ra sau thanh âm trầm bổng. Kèn Tariền dành cho các chàng trai thổi ở các nhà Xu để thổ lộ tâm tình  bạn gái. những chàng trai vừa thổi vừa hát Oát để nói lên nỗi lòng thầm kín  người mình yêu.

Âm thanh của tiếng kèn Tariền vì thế mà tha thiết, rạo rực. Tiếng kèn Khui thì vang lên cùng sở hữu làn điệu Xà nớt (được hát trong đám cưới rất nhiều). Kèn Khui là loại kèn thổi dọc sở hữu lưỡi gà làm bằng nứa rung thiên nhiên . Về cấu tạo, nó là 1 ống nứa dài 30 cm, đường kính 0,5 cm. Điểm đặc sản là cả hai người cùngthổi một ống. Khi hai người cùng thổi Khui và hát Xà nớt tức là họ đã trở thành một đôi tâm đầu ý hợp.
Điệu hát Tà oải trong đám cưới đi với dùng Khui để đệm, do đó điệu Tà oải của thanh niên nam nữ hay của người già càng trở nên vui hơn.../.

Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2017

Tham quan Di tích thành Bản Phủ huyện Điện Biên

Nằm cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ khoảng 8km, di tích Thành Bản Phủ, thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, được xây dựng cách đây hơn 200 năm. Đây là nơi ghi dấu các hoạt động nổi bật nhất của người anh hùng áo vải Hoàng Công Chất. Ông là biểu tượng, là niềm tin cho tinh thần đại đoàn kết các dân tộc, yêu nước, chống giặc ngoại xâm ở nước ta thế kỷ 18.
Thành dựa lưng vào sông Nậm Rốn, xung quanh phía ngoài sở hữu hào sâu bao bọc, chân thành rộng 15m, mặt thành rộng 5m, cao 15m, phía ngoài được trồng 3 vạn gốc tre gai đem từ miền Tây Thanh Hóa lên.

Thành Bản Phủ hiện được tôn tạo một đoạn trường thành để quý khách  thể liên tưởng về toà thành cổ nguy nga ngày ấy. Thành Bản Phủ đến nay vẫn còn dấu tích khá rõ nét, thành được xây dựng ở 1 vị trí rất đẹp và quay mặt sang hướng Đông Nam, thành  hình chữ nhật, chiều dài hơn hơn 100m, chiều rộng khoảng 70m.

Phía trước thành là Hồ Hoàn Kiếm sen rộng khoảng 7ha và cánh đồng Cao Bình bằng phẳng, tiếp đó là cánh đồng Tổng Chúp. Gần chân thành là giếng ngọc (nay gọi là Bó Phủ) nước trong vắt quanh năm.

Di tích Thành Bản Phủ còn là minh chứng cho cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc dưới sự chỉ huy của Hoàng Công Chất đánh tan giặc Phẻ, bắt sống tướng giặc là Phạ Chẩu Tin Toòng, giải phóng Mường Thanh bảo vệ núi rừng biên cương Tây Bắc của Tổ quốc vào tháng 5/1754.
Di tích còn thể hiện tinh thần đại đoàn kết những dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Hoàng Công Chất nhân dân các dân tộc nơi đây đã đoàn kết 1 lòng đánh đuổi kẻ thù chung ra khỏi bờ cõi của đất nước, cùng nhau xây dựng Bản, Mường âm no hạnh phúc.
http://dulichdaiduongvn.blogspot.com/2017/03/trung-bay-gioi-thieu-van-hoa-dan-toc-co.html